Dune - Xứ Cát (Hành tinh cát) - Chương 9 - Kết
Khắp nơi quanh Lệnh bà Jessica – chất đống bốn góc đại sảnh ở Arrakeen, ngổn ngang trong các khoảng trống – là những đồ đạc được đóng gói vốn gắn bó với cuộc sống của họ: nào thùng, nào rương, nào hộp, nào hòm – một vài món đã mở một phần. Nàng có thể nghe thấy tiếng những người bốc vác của tàu Hiệp hội đặt thêm thùng đồ nữa xuống cổng.
Jessica đứng giữa sảnh. Nàng chầm chậm quay người, ngước nhìn khắp lượt các bức chạm khác khuất trong bóng tối, những vết nứt và hốc cửa sổ ăn sâu vào tường, căn phòng khổng lồ lỗi thời này gợi nàng nhớ đến Đại sảnh của Nữ tu tại trường Bene Gesserit. Nhưng ở trường, Đại sảnh gây hiệu ứng ấm áp. ở đây, tất cả đều bằng đá lạnh lẽo.
Một kiến trúc sư nào đó đã tìm đến tận những thời xa xưa để thiết kế những bức tường có trụ ốp và rèm thẫm màu này, nàng nghĩ. Trần nhà uốn cong cách nàng hai tầng lầu, có những xà ngang lớn mà nàng tin chắc đã được chuyển đến Arrakis này bằng tàu vũ trụ với chi phí cát cổ. Không hành tinh nào trong hệ này mọc được cây để dựng nên những thanh xà như thế – trừ phi những thanh xà này giả gỗ.
Nàng nghĩ là không.
Nơi này từng là văn phòng chính phủ vào thời Đế chế Cũ. Hồi đó thì chi phí không phải vấn đề quan trọng lắm. Đó là trước thời Harkonnen với siêu đô thị mới
Carthag của họ – một nơi rẻ tiền nhếch nhác cách khoảng hai trăm ki lô mét về phía Đông Bác, bên kia Đất Gãy. Leto đã khôn ngoan chọn nơi này để đặt trụ sở nội các của ông. Tên của nó, Arrakeen, có âm thanh nghe rất hay, đậm chất truyền thống. Và đây là thành phố nhỏ hơn, dễ thanh lọc và bảo vệ hơn.
Lại vọng đến tiếng dỡ đồ loảng xoảng ở cổng. Jessica thở dài.
Tựa vào chiếc hộp bìa cứng bên phải nàng là bức chân dung phụ thân Công tước. Sợi dây thừng để buộc rủ xuống từ bức tranh như một món đồ trang trí bị sờn. Tay trái Jessica vẫn nắm chặt một đoạn dây. Bên cạnh bức tranh là một cái đầu bò màu đen đặt trên cái giá bóng loáng. Cái đầu là một hòn đảo tối đen nằm giữa biển giấy độn. Chiếc đĩa đựng nó nằm ngang trên sàn nhà, và cái mõm bóng loáng của con bò chĩa lên trần nhà như thể con vật sắp rống lên thách thức trong căn phòng dễ dội tiếng này.
Jessica tự hỏi sức ép nào đã khiến nàng mở hai vật này ra đầu tiên – cái đầu và bức tranh. Nàng biết có gì đó mang tính biểu tượng trong hành động ấy. Kể từ cái ngày người của Công tước mua nàng ra khỏi trường Bene Gesserit, chưa bao giờ nàng cảm thấy sợ hãi và thiếu tự tin vào bản thân đến vậy.
Cái đầu và bức tranh.
Chúng khiến nàng càng thêm rối trí. Nàng rùng mình, liếc nhìn những ô cửa sổ cao hé mở ở trên đầu. Mới đầu giờ chiều, nhưng ở vùng này bầu trời trông đã tối và lạnh lẽo – tối hơn nhiều so với bầu trời xanh ấm áp ở Caladan. Trong nàng nhói lên nỗi nhớ nhà da diết. Quá xa rồi, Caladan.
“Chúng ta ở đây rồi!”
Đó là giọng Công tước Leto.
Nàng quay lại, nhìn ông sải bước từ hành lang có mái vòm vào phòng ăn lớn. Bộ đồng phục làm việc màu đen gắn phù hiệu chim ưng đỏ trên ngực ông trông bụi bặm và nhàu nhĩ.
“Ta tưởng nàng bị lạc trong cái nơi gớm ghiếc này rồi,” ông nói.
“Ngôi nhà này thật lạnh lẽo,” nàng nói. Nàng nhìn vóc dáng cao lớn của ông, nhìn nước da sẫm màu luôn làm nàng nghĩ đến những rừng ô liu và ánh nắng vàng trên mặt nước xanh. Có khói gỗ trong đôi mắt xám, nhưng khuôn mặt mang vẻ chết chóc: mỏng, đầy những góc và cạnh sác.
Một nỗi sợ hãi bất thình lình siết chặt ngực nàng, ông đã trở thành người hung tợn, một người đầy quyền lực kể từ khi nhượng bộ trước mệnh lệnh của Hoàng đế.
“Toàn bộ thành phố này gây cảm giác thật lạnh lẽo,” nàng nói.
“Nó là một thành phố đồn trú nhỏ bẩn thỉu, bụi bặm,” ông đồng ý. “Nhưng chúng ta sẽ thay đổi nó.” ông nhìn khắp gian sảnh. “Đây là các phòng sinh hoạt chung trong dịp lễ. Ta vừa ngó qua các phòng cho gia đình ở chái phía Nam. Nom chúng đẹp hơn nhiều.” ông tiến lại gần, chạm vào tay nàng, ngưỡng mộ dáng vẻ uy nghi của nàng.
Một lần nữa, ông băn khoăn về tổ tiên bí mật của nàng – có thể là một Gia tộc phản loạn chăng? Thuộc dòng hoàng tộc nào đó bị giam trong ngục thất chăng? Trông nàng còn quyền quý vua chúa hơn cả chính hoàng thân quốc thích.
Dưới sức ép từ cái nhìn chăm chú của ông, nàng quay mặt đi, để lộ nét mặt nhìn nghiêng, ông nhận thấy không có một nét đặc biệt riêng lẻ nào làm vẻ đẹp của nàng nổi bật hẳn lên. Khuôn mặt trái xoan dưới búi tóc màu đồng bóng mượt. Đôi mắt nàng to, xanh trong như bầu trời Caladan buổi sáng. Cái mũi nhỏ, miệng rộng và tươi thám. Dáng người nàng đẹp và thanh tú: cao, với những đường cong mảnh dẻ.
Ông nhớ rằng các nữ tu ở trường đã gọi nàng là gầy trơ xương, những người mua nàng về đã kể với ông như vậy. Nhưng sự mô tả đó quá đơn giản hóa. Nàng đã mang lại cho dòng họ Atreides một vẻ đẹp vương giả. ông rất mừng là Paul có vẻ ngoài giống nàng.
“Paul đâu?” ông hỏi.
“Chắc nó đang học với thầy Yueh ở phòng nào đó.”
“Có thể ở chái phía Nam,” ông nói. “Ta nghĩ đã nghe thấy tiếng Yueh, nhưng ta không có thời gian vào xem.” ông liếc nhìn nàng, ngập ngừng. “Ta chỉ đến đây để treo chìa khóa lâu đài Caladan vào phòng ăn thôi.”
Nàng nín thở, kìm nén sự thôi thúc được vươn tay ra chạm vào ông. Treo chìa khóa – có một sự dứt khoát trong hành động đó. Nhưng không phải lúc
cũng như không phải chỗ để an ủi. “Khi chúng ta vào đây em có nhìn thấy cờ của chúng ta treo trên tòa nhà,” nàng nói.
Ông liếc nhìn bức chân dung cha mình. “Nàng định treo nó ở đâu?”
“Chỗ nào đó trong phòng này.”
“Không.” Từ đó vang lên dứt khoát và không cảm xúc, cho nàng biết nàng có thể dùng thủ đoạn để thuyết phục, nhưng tranh cãi công khai là vô ích. Tuy vậy, nàng vẫn cố thử, cho dù hành động đó chỉ nhác nhở chính nàng rằng nàng sẽ không dùng thủ đoạn với ông được.
“Tướng công,” nàng nói, “Chỉ cần ông…”
“Câu trả lời vẫn là không. Hầu như chuyện gì ta cũng đều chiều theo ý nàng một cách đáng xấu hổ, nhưng việc này thì không. Ta vừa ở phòng ăn lớn nơi
“Tướng công! Xin làm ơn.”
“Phải lựa chọn giữa khả năng tiêu hóa của nàng và thanh danh của tổ tiên ta, em yêu dấu ạ,” ông nói. “Họ sẽ treo trong phòng ăn.”
Nàng thở dài. “Vâng, thưa Tướng công.”
“Nàng có thể tiếp tục thói quen ăn uống trong phòng riêng bất cứ khi nào có thể. Ta sẽ chỉ yêu cầu nàng ngồi vào vị trí thích hợp trong những dịp trang trọng thôi.”
“Cảm ơn Tướng công.”
“Và đừng đối xử lạnh nhạt khách sáo với ta! Hãy biết ơn vì ta không bao giờ cưới nàng, em yêu dấu. Không thì nghĩa vụ của nàng sẽ là bữa ăn nào cũng phải ngồi ở bàn cùng ta đấy.”
Nàng giữ gương mặt bất động, gật đầu.
“Hawat đã đặt thiết bị phát hiện chất độc trên khắp bàn ăn,” ông nói. “Có một thiết bị cầm tay trong phòng nàng đấy.”
“Ông đã lường trước việc này… sự bất đồng,” nàng nói.
“Em yêu, ta cũng nghĩ cách làm cho nàng được thoải mái. Ta vừa tuyển thêm vài người hầu. Họ là dân địa phương, nhưng Hawat đã xác minh nhân thân họ rồi – tất cả là người Fremen. Họ sẽ làm việc ở đây cho đến khi người của ta hoàn thành xong những nhiệm vụ khác.”
“Thế có ai xuất thân từ đây mà thực sự đáng tin cậy không?”
“Bất cứ ai căm thù bọn Harkonnen.
Thậm chí có lẽ nàng sẽ muốn giữ người quản gia trưởng: Shadout Mapes.”
“Shadout,” Jessica nói. “Một cái tên Fremen?”
“Ta nghe nói nó có nghĩa là ‘người
múc giếng’, cái nghĩa đó mang những ẩn ý khá quan trọng. Có thể nàng không có ấn tượng rằng bà ta thuộc tip người hầu, tuy nhiên Hawat đánh giá bà ta khá cao dựa trên báo cáo của Duncan. Họ tin rằng bà ta muốn làm người phục vụ – đặc biệt là muốn phục vụ nàng.”
“Em?”
“Người Fremen đã biết nàng là Bene Gesserit,” ông nói. “ở đây có nhiều truyền thuyết về Bene Gesserit.”
Missionaria Protectiva, Jessica nghĩ. Không nơi nào thoát khỏi họ.
“Điều này có nghĩa là Duncan đã thành công?” nàng hỏi. “Người Fremen sẽ là đồng minh của chúng ta?”
“Chẳng có gì chắc chắn cả,” ông nói. “Họ muốn theo dõi chúng ta một thời gian, Duncan tin vậy. Tuy nhiên, họ đã hứa sẽ ngừng cướp bóc những ngôi làng xa xôi hẻo lánh của chúng ta trong thời
gian thỏa ước ngừng bán có hiệu lực. Đó là một lợi ích quan trọng hơn vẻ bề ngoài của nó. Hawat nói với ta người Fremen là cái gai cám sâu trong sườn bọn Harkonnen và quy mô những cuộc cướp bóc của họ là một bí mật được che giấu cẩn thận. Hoàng đế có nhận ra sự vô hiệu quả của quân đội nhà Harkonnen thì cũng chẳng ích gì.”
“Một quản gia Fremen,” Jessica trầm ngâm suy nghĩ, quay lại chủ đề về Shadout Mapes. “Bà ta hẳn có đôi mắt toàn màu xanh.”
“Đừng để vẻ bề ngoài của những người này đánh lừa nàng,” ông nói. “Trong con người họ có một sức mạnh khó lường, một sinh lực mãnh liệt. Ta nghĩ họ là tất cả những gì chúng ta cần.”
“Đó là một canh bạc nguy hiểm,” cô nói.
“Chúng ta sẽ không bàn đến chuyện này nữa,” ông nói.
Nàng gượng cười. “Chúng ta đã thỏa thuận, chắc chắn vậy.” Nàng thực hiện một bài tập tĩnh tâm nhanh – hai hơi thở sâu, suy nghĩ theo nghi thức, rồi hỏi: “Khi em sắp xếp các phòng, ông có yêu cầu gì đặc biệt không?”
“Một ngày nào đó nàng phải dạy ta cách nàng làm điều đó,” ông nói, “cái cách nàng gạt mọi lo láng sang một bên để quay trở lại những vấn đề thực tế.
Hẳn đó là một khả năng của Bene Gesserit.”
“Đó là một khả năng của đàn bà,” nàng nói.
Ông mỉm cười. “Tốt, về việc phân chia các phòng: hãy bảo đảm rằng ta có một văn phòng lớn kế bên khu phòng ngủ. ở đây sẽ có nhiều công việc giấy tờ hơn so với tại Caladan. Một phòng bảo vệ, tất nhiên rồi. Vậy là đủ. Đừng lo lắng về an
ninh của ngôi nhà. Người của Hawat đã được bố trí để bảo vệ cẩn mật rồi.”
“Em tin chắc họ đã làm thế.”
Ông liếc đồng hồ đeo tay. “Và có lẽ nàng cũng nhận thấy tất cả đồng hồ của chúng ta cần phải được chỉnh lại theo giờ địa phương Arrakeen. Ta vừa chỉ định một kỹ thuật viên chăm lo việc này. Anh ta sẽ có mặt ở đây ngay thôi.” ông gạt sợi tóc trên trán nàng ra phía sau. “Ta phải quay lại sân đáp tàu bây giờ. Tàu con thoi thứ hai chở quân dự phòng của ta sẽ hạ cánh bất cứ lúc nào.”
“Hawat không đón họ được sao, thưa Tướng công? Em trông ông mệt mỏi rồi.”
“Thufir xuất sắc thậm chí còn bận hơn cả ta. Nàng biết hành tinh này đầy rẫy mưu mô quỷ quyệt của nhà Harkonnen mà. Bên cạnh đó, ta phải cố gắng thuyết phục những người khai thác hương dược có tay nghề đừng bỏ đi. Họ có quyền lựa chọn, nàng biết đấy, cùng với sự thay đổi của thái ấp – và không tài nào mua chuộc cái gã hành tinh học được Hoàng đế và Landsraad bổ nhiệm làm Phán quan phụ trách Thay đổi. ông ta cho phép họ chọn lựa. Tám trăm tay thợ lành nghề chờ được ra đi trên tàu hương dược, rồi còn một tàu vũ trụ chở hàng của Hiệp hội luôn chờ sẵn.”
“Tướng công…” Nàng không nói hết câu, ngập ngừng.
“Sao?”
Không ai có thể thuyết phục ông ấy ngừng việc cố gắng làm cho hành tinh này trở nên an toàn đối với chúng ta, nàng nghĩ. Và ta không thể dùng thủ đoạn với ông ấy.
“Vậy ông muốn ăn tối vào lúc nào?” nàng hỏi.
Đó không phải là điều cô ấy định nói, ông nghĩ. Ái chà, Jessica của ta, ước
gì chúng ta đang ở một nơi khác, bất kỹ nơi nào cách xa cái chốn kinh khủng này – một mình, chỉ có hai ta, không lo lắng gì.
“Ta sẽ ăn cùng sĩ quan ở sân đáp tàu,” ông nói. “Đừng đợi ta quá muộn. Và… à, ta sẽ gửi một xe bảo vệ cho Paul. Ta muốn thằng bé tham dự cuộc họp hoạch định chiến lược của chúng ta.”
Ông hắng giọng như thể để nói thêm điều gì khác, rồi, không hề báo trước, ông quay người sải bước, tiến về phía cổng, nơi nàng có thể nghe tiếng nhiều thùng đồ nữa đang được dỡ xuống. Chỉ nghe tiếng ông vang lên một lần ở đó, giọng ra lệnh và khinh khỉnh, cách nói quen thuộc của ông đối với người hầu những khi vội vã: “Lệnh bà Jessica đang ở trong phòng lớn. Vào đấy gặp Lệnh bà ngay.”
Cửa phía ngoài đóng sập.
Jessica quay đi, đối diện với bức chân
dung cha của Leto. Một họa sĩ lừng danh, Albe, đã vẽ nó vào những năm giữa đời của Lão Công tước. Trong tranh, ông mặc trang phục đấu bò tót với chiếc áo choàng không tay đỏ tươi phất phới trên tay trái. Khuôn mặt trông trẻ trung, hầu như không già hơn Leto bây giờ, cũng cái nét mặt chim ưng đó, cũng cái nhìn chòng chọc màu xám đó. Nàng siết chặt nắm tay đang để ở hai bên sườn, nhìn trừng trừng vào bức tranh.
“Đồ khốn kiếp! Đồ khốn kiếp! Đồ khốn kiếp!” nàng thì thầm.
“Người có yêu cầu gì không, thưa Người Có Dòng dõi Tôn quý?”
Đó là giọng phụ nữ, nhỏ nhẹ và mỏng mảnh.
Jessica quay phát lại, nhìn chằm chằm vào người đàn bà tóc hoa râm người đầy u bướu, mặc chiếc váy thụng quái gở với màu nâu của hàng tôi tớ.
Trông bà ta nhăn nheo khô héo như bất kỹ kẻ nào trong đám thường dân đứng chào đón họ dọc con đường từ sân đáp tàu đi ra vào sáng hôm đó. Mỗi người dân địa phương mình đã gặp ở hành tinh này, Jessica nghĩ, đều giống như quả mận khô, thiếu dinh dưỡng. Vậy mà Leto nói họ rất khỏe mạnh và đầy sức sống. Lại còn đôi mắt, tất nhiên rồi – cái thứ màu nước xanh thăm thẳm, sâu hun hút không chút màu trắng ấy – che giấu suy nghĩ, đầy bí ẩn. Jessica buộc mình không nhìn chằm chằm bà ta nữa.
Người đàn bà gật đầu kiêu ngạo, nói: “Mọi người gọi tôi là Shadout Mapes, thưa Người Có Dòng dõi Tôn quý. Người có yêu cầu gì không?”
“Ngươi có thể gọi ta là ‘Lệnh bà’,” Jessica nói. “Ta không phải người có dòng dõi quý tộc. Ta là thiếp của Công tước Leto.”
Lại cái gật đầu kỹ lạ đó, và người đàn bà chăm chú nhìn Jessica rồi hỏi một
câu tinh quái. “Như vậy là còn một người vợ nữa?”
“Không có ai cả, và cũng chưa từng có. Ta là… người bạn đời duy nhất của Công tước, là mẹ của người thừa kế được chỉ định.”
Ngay khi đang nói, Jessica vẫn cười thầm trước niềm kiêu hãnh ẩn sau lời lẽ của nàng. Thánh Augustine đã nói gì nhỉ? nàng tự hỏi. “Tâm trí ra lệnh cho thể xác và thể xác tuân theo. Tâm trí ra lệnh
cho chính nó thì gặp phải sự kháng cự.” Đúng thế – ta vừa gặp thêm một sự kháng cự nữa. Ta có thể dùng một nơi trú ẩn yên tĩnh riêng biệt.
Một tiếng rao lạ lùng vang lên từ con đường bên ngoài nhà. Nó cứ lặp đi lặp lại: “Soo-soo-Sook! Soo-soo-Sook!” Rồi: “Ikhut-eigh! Ikhut-eigh!” Và lại: “Soo-soo-Sook! Soo-soo-Sook!”
“Cái gì đấy?” Jessica hỏi. “Sáng nay khi ngồi xe trên phố, ta đã nghe thấy âm thanh này vài lần.”
“Chỉ là người bán nước thôi, thưa Lệnh bà. Nhưng bà không phải bận tâm đến những người như bọn họ. Bể ở đây chứa năm mươi ngàn lít nước và luôn luôn đầy.” Bà ta liếc xuống áo váy mình. “Thưa Lệnh bà, bà có biết tại sao ở đây thậm chí tôi không phải mặc sa phục không?” Bà ta cười khúc khích. “Thế mà tôi cũng chưa chết nữa!”
Jessica lưỡng lự, muốn hỏi han người đàn bà Fremen này, nàng cần thông tin để đưa đường chỉ lối cho nàng. Nhưng mang lại trật tự cho tình trạng lộn xộn trong lâu đài này thì cấp bách hơn. Dù vậy, nàng vẫn thấy bứt rứt bởi ý nghĩ rằng ở đây, nước là tiêu chuẩn quan trọng để chứng tỏ sự giàu có.
“Chồng ta đã cho ta biết tên bà, Shadout,” Jessica nói. “Ta nhận ra từ này.
Nó là một từ rất cổ.”
“Lệnh bà biết những ngồn ngữ cổ à?” Mapes hỏi, và bà ta chờ đợi với sự chăm chú kỳ cục.
“Ngồn ngữ là bài học đầu tiên của Bene Gesserit,” Jessica nói. “Ta biết ngôn ngữ Bhotani Jib và Chakobsa, tất cả những ngồn ngữ đi săn.”
Mapes gật đầu. “Đúng như trong truyền thuyết.”
Jessica băn khoăn: Tại sao ta phải vờ vịt thế này? Nhưng các phương pháp của Bene Gesserit vốn xảo quyệt và đầy thuyết phục.
“Ta biết những Điều Tối tăm và những phương pháp của Mẹ Vĩ đại,” Jessica nói. Nàng còn đọc được từ hành vi và diện mạo của Mapes những dấu hiệu rõ ràng hơn, những biểu hiện nho nhỏ để lộ điều gì đó. “Miseces prejia,” nàng nói bằng ngôn ngữ Chakobsa.
“Andral t’re pera! Trada cik buscakri miseces perakri…”
Mapes lùi lại một bước, dáng điệu như muốn bỏ chạy.
“Ta biết nhiều chuyện,” Jessica nói. “Ta biết ngươi vừa sinh con, ngươi vừa mất những người thân thích, ngươi phải ẩn trốn trong lo sợ, ta biết ngươi đã có một hành động hung bạo và sẽ còn tỏ ra hung bạo hơn thế nữa. Ta biết nhiều chuyện.”
Mapes khẽ nói: “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Lệnh bà.”
“Ngươi nói về truyền thuyết và tìm câu trả lời,” Jessica nói. “Hãy thận trọng với những câu trả lời ngươi có thể tìm thấy. Ta biết trước khi đến đây ngươi đã chuẩn bị sẵn cho bạo lực, mang vũ khí trong áo lót của ngươi.”
“Thưa Lệnh bà, tôi…”
“Có một chút khả năng là ngươi có thể lấy máu ta.” Jessica nói. “Nhưng nếu làm như vậy ngươi sẽ gây tàn hại nhiều hơn cả những gì mà mọi nỗi sợ điên dại nhất của ngươi có thể tưởng tượng ra. Có những điều còn tồi tệ hơn cả cái chết, ngươi biết đấy – ngay đối với cả một dân tộc.”
“Thưa Lệnh bà!” Mapes cầu xin. Trông bà ta như thể sắp ngã khuỵu xuống. “Thứ vũ khí này là món quà dành cho bà nếu bà chứng tỏ được bà là Đấng Tối Cao.”
“Và là phương tiện để giết ta nếu ta không chứng tỏ được điều đó,” Jessica nói. Nàng chờ đợi với vẻ thư giãn bề ngoài vốn giúp cho những ai được huấn luyện theo Bene Gesserit có thể khiến đối phương khiếp sợ khi giao chiến.
Giờ chúng ta xem quyết định cuối cùng sẽ nghiêng về bên nào đây, nàng nghĩ.
Chậm chạp, Mapes đưa tay vào trong cổ áo, rút ra một vỏ bao sẫm màu. Một chiếc cán đen với những rãnh sâu khớp với ngón tay thò ra ngoài bao. Một tay cầm vỏ, một tay cầm cán, bà ta rút lưỡi dao màu trắng sữa ra, giơ lên. Lưỡi dao dường như tỏa sáng, lấp lánh thứ ánh sáng của riêng nó. Nó có lưỡi kép giống thanh đoản kiếm hai lưỡi, lưỡi dao dài khoảng hai mươi phân.
“Bà biết cái này không, thưa Lệnh bà?” Mapes hỏi.
Nó chỉ có thể là một thứ, Jessica biết vậy, con dao pha lê của Arrakis trong truyền thuyết, lưỡi dao chưa từng được mang ra khỏi hành tinh này mà chỉ được biết đến qua đồn thổi và những lời truyền miệng vu vơ.
“Nó là dao pha lê,” nàng nói.
“Đừng nói năng khinh suất,” Mapes nói. “Lệnh bà biết ý nghĩa của nó không?”
Và Jessica nghĩ: Đó là một câu hỏi hệ trọng. Đây chính là lý do người Fremen này chấp nhận hầu hạ ta, chỉ để hỏi một câu này. Câu trả lời của ta có thể làm cho bạo lực đến sớm hơn hoặc… sẽ là cái gì? Bà ta tìm kiếm một câu trả lời từ ta: ý nghĩa của con dao. Bà ta được mọi người gọi là Shadout theo ngồn ngữ Chakobsa. Con dao, đó là “Ngài tạo ra Cái chết” theo tiếng Chakobsa. Bà ta đang trở nên bồn chồn. Ta phải trả lời ngay. Trì hoãn cũng nguy hiểm chẳng khác một câu trả lời sai.
Jessica nói: “Nó là một Ngài tạo.”
“Ối chu cha!” Mapes rền rĩ. Âm thanh đó chứa cả sự đau buồn lẫn phấn khởi. Bà ta run rẩy dữ dội đến nỗi mũi dao hát những mảnh sáng phản chiếu lấp lánh khắp căn phòng.
Jessica chờ đợi, bình tĩnh. Nàng định nói con dao là Ngài tạo ra cái chết rồi thêm vào cái từ cổ kia, nhưng mọi giác quan đã lập tức cảnh báo nàng; tất cả những bài huấn luyện sâu xa về sự cảnh giác đã giúp nàng bóc trần ý nghĩa trong các co giật cơ rất đỗi ngẫu nghiên.
Cái từ then chốt là… Ngài tạo.
Ngài tạo? Ngài tạo.
Dù vậy, Mapes vẫn nắm con dao trong tư thế sẵn sàng sử dụng.
Jessica nói: “Có phải người nghĩ rằng ta, người biết những bí ẩn của Mẹ Vĩ đại, lại không biết về Ngài tạo ư?”
Mapes hạ dao xuống. “Thưa Lệnh bà, khi một người đã sống cùng lời tiên tri trong một thời gian dài đến thế thì khoảnh khác thiên khải là một cú sốc.”
Jessica nghĩ về lời tiên tri – Shari-a và toàn bộ panoplia propheticus, một Bene Gesserit của nhánh Missionaria Protectiva rơi xuống đây từ hàng bao thế kỷ trước – đã chết từ lâu, không nghi ngờ gì nữa, nhưng mục đích của bà ta đã hoàn thành: những truyền thuyết che chở đã khác sâu trong những con người này, để đợi cái ngày một Bene Gesserit cần tới nó.
Vậy đấy, ngày ấy đã đến.
Mapes đút con dao vào vỏ, nói: “Đây là lưỡi dao bất định, thưa Lệnh bà. Xin hãy giữ nó ở bên người. Nếu để xa cơ thể người hơn một tuần thì nó sẽ tự phân hủy. Nó là của bà, một chiếc răng của shai – hulud, chừng nào bà còn sống.”
Jessica giơ bàn tay phải ra, mạo hiểm chơi một canh bạc: “Mapes, ngươi đã tra dao vào vỏ khi nó chưa vấy máu.”
Mapes thở hổn hển, thả con dao đã được nhét trong vỏ vào tay Jessica, giật cái áo lót màu nâu ra, rên lên: “Xin hãy lấy nước sự sống của tôi!”
Jessica rút dao ra khỏi vỏ. Nó mới sáng làm sao! Nàng chĩa mũi dao về phía
Mapes, nhận thấy bà ta bị bao trùm trong một nỗi sợ hãi còn lớn hơn cả sự hoảng loạn trước cái chết. Mũi dao có tẩm độc không? Jessica phân vân. Nàng nghếch mũi dao, dùng cạnh dao khía một vết thật nhẹ lên phía trên ngực trái Mapes. Máu đặc sệt ứa ra, nhưng ngừng chảy hầu như ngay lập tức. Đông máu cực nhanh, Jessica nghĩ. Một đột biến làm cơ thể giữ được hơi ẩm?
Nàng tra dao vào vỏ rồi nói: “Cài cúc áo lại, Mapes.”
Mapes run rẩy làm theo. Đôi mắt không có lòng trắng nhìn chằm chặp vào Jessica. “Bà là người của chúng tôi,” bà ta lẩm bẩm. “Bà là Đấng Tối Cao.”
Lại có tiếng dỡ hàng vọng từ cổng vào. Nhanh như cắt, Mapes chộp lấy con dao vừa được tra vỏ, giấu vào người Jessica. “Kẻ nào nhìn thấy con dao này đều phải được tẩy uế, nếu không thì phải chết!” Bà ta gầm gừ. “Bà biết điều đó,
thưa Lệnh bà.”
Giờ thì ta biết rồi, Jessica nghĩ.
Đám người bốc dỡ hàng bỏ đi, không xâm nhập vào Đại sảnh.
Mapes trấn tĩnh lại, nói: “Những ai đã nhìn thấy con dao pha lê mà không được tẩy uế thì sẽ không thể sống mà rời khỏi Arrakis. Đừng bao giờ quên điều đó, thưa Lệnh bà. Bà đã được giao phó một con dao pha lê.” Bà ta hít một hơi thở sâu. “Giờ thì vật này phải đi theo con đường của nó. Không thể hối thúc nó.” Bà ta liếc nhìn những chiếc hộp chất đống và hàng hóa lỉnh kỉnh xung quanh họ. “Và có bao nhiêu việc để làm trong thời gian chúng ta ở đây.”
Jessica do dự. Vật này phải đi theo con đường của nó. Đó là một câu đặc trưng trong vô vàn lời niệm chú của Missionaria Protectiva – Mẹ Chí tôn đang đến để giải phóng ngươi.
Nhưng ta không phải Mẹ Chí tôn, Jessica nghĩ. Rồi nàng lại nghĩ: Mẹ Vĩ đại! Bọn họ đã cám người đó ở đây! Chỗ này ắt là một nơi ghê tởm!
Bằng giọng tự nhiên, Mapes nói: “Bà muốn tôi làm gì trước tiên, thưa Lệnh bà?”
Bản năng cảnh báo Jessica hãy trả lời cho hợp với cái giọng bình thường đó. Nàng nói: “Bức tranh Lão Công tước đằng kia kìa, phải treo nó ở một phía phòng ăn. Cái đầu bò thì đặt ở bức tường đối diện bức tranh.”
Mapes đi về phía cái đầu bò. “Phải là con thú to đến cỡ nào mới mang được cái đầu như thế,” bà ta nói. Bà cúi gập người xuống. “Trước tiên tôi phải lau cho sạch đã, phải không, thưa Lệnh bà?”
“Không.”
“Nhưng có vết bẩn đóng trên sừng
„ ‘ II
nó.
“Đó không phải vết bẩn, Mapes ạ. Đó là máu của phụ thân Công tước. Người ta đã phun chất hãm màu trong suốt lên đôi sừng suốt nhiều giờ sau khi con thú này giết chết Lão Công tước.”
Mapes đứng thẳng lên. “À, ra thế!” bà ta nói.
“Chỉ là máu thôi,” Jessica nói. “Lại là máu khô nữa chứ. Gọi thêm vài người tới treo những vật này lên ngay đi. Những thứ ghê tởm này nặng đấy.”
“Bà nghĩ vết máu này làm tôi khó chịu sao?” Mapes hỏi. “Tôi là người sa mạc và từng nhìn thấy nhiều máu rồi.”
“Ta… nhận thấy rõ điều này,” Jessica nói.
“Trong đó có cả máu của chính tôi nữa,” Mapes nói. “Nhiều hơn là máu Lệnh bà đã lấy ra từ vết thương nhẹ bà gây ra cho tôi.”
“Ngươi muốn ta rạch sâu hơn?”
“Ồ, không! Nước của cơ thể chỉ vừa đủ dùng, thật lãng phí nếu để nó phun ra không khí nhiều quá. Lệnh bà làm thế là đúng lắm.”
Còn Jessica, vốn để ý đến lời nói và thái độ, đã nắm bắt được những hàm ý sâu hơn trong cụm từ “nước của cơ thể”. Một lần nữa nàng cảm thấy nặng trĩu khi nghĩ đến tầm quan trọng của nước ở Arrakis.
“Trong hai món đồ xinh xắn này, tôi sẽ treo cái nào lên phía nào của phòng ăn lớn đây?” Mapes hỏi.
Lúc nào cũng là người thực tế, cái bà Mapes này, Jessica nghĩ. Nàng nói: “Tự mình quyết định đi, Mapes. Với ta, đằng nào cũng thế thôi.”
“Sẽ như ý bà, thưa Lệnh bà.” Mapes cúi xuống, bắt đầu dỡ lớp giấy bọc và dây bện ra khỏi cái đầu. “Mày đã giết một lão
công tước, phải không?” bà ta ngâm nga.
“Ta gọi một người khuân hàng đến giúp ngươi nhé?” Jessica hỏi.
“Tôi tự xoay xở được, thưa bà chủ.”
Đúng thế, bà ta sẽ tự xoay xở được, Jessica nghĩ. Đó là đặc tính của người Fremen này: nỗ lực tự xoay xở.
Jessica cảm thấy chiếc vỏ dao lạnh lẽo dưới lớp áo lót, nghĩ đến cái chuỗi dài mưu đồ Bene Gesserit đã rèn thêm một
mắt xích ở đây. Vì mưu đồ đó, nàng đã sống sót qua thời khác nguy hiểm chết người này. “Không thể hối thúc nó,” Mapes đã nói thế. Nhưng người ta vẫn đang liều lĩnh lao vào nơi này, khiến Jessica tràn ngập một linh cảm chẳng lành. Mọi chuẩn bị của Missionaria
Protectiva hay sự kiểm tra đầy vẻ nghi ngờ của Hawat đối với cái đống đá xây kiểu lâu đài này đều không thể xua tan cảm giác đó.
“Khi nào treo những thứ đó xong thì ngươi mở mấy hộp này ra,” Jessica nói. “Trong đám người chuyển hàng ở cổng có một người có tất cả chìa khóa và biết chỗ để những thứ này. Lấy chìa khóa và danh sách từ anh ta. Nếu có vấn đề gì thì đến hỏi ta ở chái nhà phía Nam.”
“Sẽ theo đúng ý bà, thưa Lệnh bà,” Mapes nói.
Jessica quay đi, nghĩ: Hawat có thể coi cái Phủ thống sứ này là chỗ an toàn, nhưng nơi đây có gì đó không ổn. Ta có thể cảm thấy điều đó.
Jessica đột ngột cảm thấy khao khát muốn gặp con trai. Nàng bắt đầu đi về phía ô cửa vòm cung dẫn vào hành lang thông với phòng ăn và những chái nhà dành cho gia đình. Nàng đi càng lúc càng nhanh cho đến khi gần như chạy.
Đằng sau nàng, Mapes ngừng dỡ đám giấy bọc chiếc đầu bò, nhìn vào cái lưng
đang xa dần. “Bà ấy đúng là Đấng Tối Cao,” bà ta thì thầm. “Tội nghiệp.”
“Yueh! Yueh! Yueh!” điệp khúc vang lên. “Một triệu cái chết cũng chưa đủ với Yueh!”
Trích “Chuyện thuở thiếu thời của Muad’Dib” của Công chúa Irulan